Thực đơn
Phúc_tấn Chế độTrong hậu viện của các Hoàng tử và các Vương, có tổng cộng ba loại phân cấp bậc thê thiếp:
Theo quy định của nhà Thanh, các Đích Phúc tấn và Trắc Phúc tấn được tuyển cho Hoàng tử Vương công thường đều thông qua Bát Kỳ tuyển tú, được Hoàng đế chỉ định Tú nữ từ trong đợt tuyển này mà trở thành hôn phối cho các Hoàng tử Vương công. Do đó, các Đích Phúc tấn và Trắc Phúc tấn được chỉ định từ Bát Kỳ tuyển tú đều xuất thân Kỳ phân Tá lĩnh. Dựa theo việc này, họ có địa vị rất cao trong phủ và phả hệ một chi của vị Hoàng tử Vương công ấy, bởi vì cả hai vị Đích Phúc tấn cùng Trắc Phúc tấn khi nhập phủ, đều dùng lễ đại hôn (Trắc Phúc tấn có thể kém hơn một chút), và đều do bộ Lễ tiến hành tuyên sách phong tước hiệu bằng lễ Sách phong chính thức. Cũng theo phân lệ ấy, các Đích Phúc tấn và Trắc Phúc tấn được chỉ định trực tiếp trong Bát Kỳ tuyển tú có thể mang theo ["Bồi giá Nha hoàn"; 陪嫁丫鬟] - tức những Nữ tỳ theo từ nhà mẹ đẻ của các Phúc tấn nhập phủ[7]. Dù không phổ biến, song các Bao y nhân, tức Nội Bát kỳ, cũng có thể được chỉ định trực tiếp làm Trắc Phúc tấn trong Nội vụ phủ tuyển tú, tuy nhiên việc này xảy ra không nhiều lắm và cũng chưa xác định rõ họ có thể hưởng lễ cưới nhập phủ hay không. Những Bao y nhân được chỉ định trực tiếp này phần nhiều đều xuất thân thế gia trong hàng quan lại Nội vụ phủ.
Các Thứ Phúc tấn, cũng gọi "Cách cách", là những vị trí không được tham dự Bát Kỳ tuyển tú, mà chỉ được chọn nạp vào phủ, do đó các Cách cách thông thường xuất thân là Bao y thuộc Hạ ngũ kỳ, một số lại thuộc Bao y Thượng tam kỳ vì họ là Cung nữ tử hầu hạ Hoàng tử từ trong cung, sau đó theo Hoàng tử khi phân phủ. Những nữ tử xuất thân Bao y Hạ ngũ kỳ, thông thường là được phái đến hầu trong Vương phủ theo nghĩa vụ bắt buộc[8], sau đó tùy theo hoàn cảnh mà được ["Thu phòng"; 收房], tức nạp làm thiếp. Trong phủ, Cách cách hoàn toàn chỉ bị xem là tiểu thiếp, địa vị rất thấp nên thông thường chỉ dùng hình thức ["Nạp"; 納] để vào phủ hầu hạ, không khác gì nữ tỳ bình thường, do vậy họ không có lễ cưới và không được mang theo người hầu riêng. Mức hạn về số lượng Cách cách ban đầu không quy định, thường tùy vào việc Hoàng đế ban cho bao nhiêu hoặc là có thể thu nạp bao nhiêu. Tuy nhiên theo quy định chính thức vào năm Càn Long thứ 7 (1742) bởi Càn Long Đế, một Thân vương chỉ có 10 Dắng thiếp chính thức còn Quận vương là 6 người. Điều này có nghĩa số "Thứ Phúc tấn" được chính thức công nhận chỉ trong phạm vị này, ngoài ra đều không được công nhận[9].
Ngoài thân phận Bao y, các Cách cách cũng có thể xuất thân từ Thuộc nhân hoặc Gia nô, cụ thể:
Các vị Cách cách trong Vương phủ cũng có thể được ban Sách phong trở thành Trắc Phúc tấn vì nhiều lý do. Có hai cách khiến Cách cách trở thành Trắc Phúc tấn vào đời Thanh:
Thông thường các Cách cách được Hoàng đế ân chuẩn trở thành Trắc Phúc tấn đa số là vì sinh ra con trai, trường hợp này có Tề phi Lý thị của Ung Chính Đế và Hòa phi Na Lạp thị của Đạo Quang Đế. Còn ngoài ra, chỉ khi Hoàng đế đặc biệt cho phép thì bọn họ mới có thể trở thành Trắc Phúc tấn, loại này có Đôn Túc Hoàng quý phi Niên thị, vốn là "Thuộc nhân" của Ung Chính Đế khi còn là Hoàng tử, và Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao thị, vốn là "Bao y nhân" hầu Càn Long Đế với tư cách Cung nữ tử, cả hai đều do Khang Hi Đế và Ung Chính Đế chính thức ban cho vị trí Trắc Phúc tấn. Từ đời Càn Long, để có thể thỉnh lên Trắc Phúc tấn, thì 「Bắt buộc phải từng sinh dục」, nếu không cho dù chỗ cho Trắc Phúc tấn vẫn còn, thì cũng không thể xin thỉnh phong[9]. Điều này có nghĩa, giả dụ Vương phủ A đã có 2 Trắc Phúc tấn, còn 2 vị trí nữa, Vương gia A cũng không thể thỉnh phong cho Cách cách B nếu B không sinh con.
Và dù Cách cách trong nhiều trường hợp có thể được nâng làm Trắc Phúc tấn, nhưng hiện tượng "Phù chính" (扶正), tức là từ Trắc Phúc tấn đi lên Đích Phúc tấn rất khó xảy ra do vấn đề thân phận cách biệt. Thời nhà Thanh, Chính thất của các Vương đều phải thuộc thân phận chính danh của người Bát Kỳ thuộc Kỳ phân Tá lĩnh, do đó rất ít khi Trắc Phúc tấn có thể đi lên vị trí Chính đích, bởi vì đại đa số Trắc Phúc tấn đều xuất thân Bao y hoặc Gia nô. Trường hợp không thể lấy thiếp "Phù chính", thì triều đình đều sẽ chọn người Bát kỳ khác hợp tuổi nhập phủ làm Kế thê, đó gọi là "Tục huyền" hoặc "Điền phòng" theo cách nói dân gian (xem bài Vợ). Thời gian cưới Kế thê đối với Hoàng tử Vương công không có quy định gắt gao như để tang bao lâu so với Nguyên phối, ví dụ như trường hợp Hiếu Mục Thành Hoàng hậu vừa qua đời đầu năm ấy, thì cuối năm ấy thì triều đình đã cưới Hiếu Thận Thành Hoàng hậu làm Kế thê của Đạo Quang Đế.
Bên cạnh đó, việc sách phong Trắc Phúc tấn triều Thanh cũng có nhiều vấn đề, khiến việc Thỉnh phong chậm trễ hoặc trù trì mãi không được, nên thời kỳ cuối cũng có một tình trạng “phong khống” Trắc Phúc tấn diễn ra trong các Vương phủ. Ấy là như một Vương phủ nói có 5 vị "Trắc Phúc tấn", trong phủ cũng xưng hô như vậy, song thực tế chỉ có 3 người được sách phong chính thức bởi triều đình.
Do vai vế chênh lệch, con cái được sinh ra bởi các vị giai cũng không hề giống nhau. Trước khi nhập quan, con cái do Đích Phúc tấn và Trắc Phúc tấn sinh ra gần như là như nhau, vì Trắc Phúc tấn chung quy cũng được không chính thức xem là Bình thê. Tuy nhiên, khi Thanh triều đã thiết lập quy tắc chính quy từ khi nhập quan, Trắc Phúc tấn địa vị đã khác, con cái của Trắc Phúc tấn cũng từ đó kém hơn con cái do Đích Phúc tấn hạ sinh. Còn con cái của các Cách cách, hoàn toàn không thể so sánh.
Từ quy định của nhà Thanh, con cái do các thê thiếp của Thân vương hạ sinh có thể phân ra:
Về phương diện khác, con cái do Trắc Phúc tấn thời Trung - Hậu kỳ sinh ra, không có khái niệm “Nhà mẹ đẻ” đối với dòng họ của mẹ ruột. Khái niệm ấy như nhau đều chỉ đến nhà mẹ của Đích Phúc tấn, điều này tra ra trong hồ sơ Trung và Hậu kỳ triều Thanh đều nhất quán, không có ngoại lệ.
Căn cứ ghi nhận của Thanh sử cảo trong Chí thất thập bát (志七十八)[10], trang phục của các Phúc tấn cùng Tông thất Thê tử về cơ bản có hai loại gọi là Triều phục (朝服) và Cát phục (吉服), thành phần chủ yếu của hai trang phục này là mũ và áo. Trong đó mũ chia làm Triều quan (朝冠) và Cát phục quan (吉服冠), mà áo lại chia làm hai thành phần là Quái (褂) khoác bên ngoài và Bào (袍) là áo mặc bên trong. Áo "Quái" chia làm Triều quái (朝褂) và Cát phục quái (吉服褂), còn "Bào" là Triều bào (朝袍) và Mãng bào (蟒袍), hình thức đều là áo cổ tròn, khai vạt, 2 bên hông xẻ tà, cổ tay áo bình phẳng, sắc thường dùng xanh đá, tức Thạch thanh (石青) theo chữ Hán.
Cái gọi là Nghi vệ (儀衛), cũng kêu Nghi trượng (儀仗), là một chuỗi đồ dùng gồm kiệu, xe, cờ hiệu và kèn trống để hộ tống một nhân vật cố định khi xuất hiện bên ngoài trong một dịp lễ nào đó. Nghi vệ của những Mệnh phụ thuộc Hoàng thất, ngoại trừ Hậu phi có quy định riêng, thì đều lấy Cố Luân Công chúa làm tiêu chuẩn. Theo Thanh sử cảo, Chí bát thập (志八十)[20], Nghi vệ của Cố Luân Công chúa được quy định:
Hoàng tử Phúc tấn và Thân vương Phúc tấn như nhau, đều án theo Cố Luân Công chúa, chỉ có "Khúc bính tán" màu đỏ, và Thị nữ tùy hầu là 4 người. Thế tử Phúc tấn như Hòa Thạc Công chúa[21], Quận vương Phúc tấn án theo Quận chúa[22], Phúc tấn của Quận vương Trưởng tử cùng Bối lặc phu nhân đều án Huyện chúa[23], còn Bối tử Phu nhân trở xuống thì không có Nghi vệ, Thị nữ tùy hầu 1 người, riêng từ Trấn quốc Tướng quân Phu nhân trở xuống không có Thị nữ tùy hầu. Theo quy chế thời Sơ kỳ, đại đa số được quy định như nhau, chỉ thêm bớt vài chỗ[24].
Thực đơn
Phúc_tấn Chế độLiên quan
Phúc tấn Phúc Tân (xã) Phúc Tân (phường) Phúc Tân kêu gọi trả thù Phúc Tân (định hướng)Tài liệu tham khảo
WikiPedia: Phúc_tấn https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=357365 https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=674292&rem... https://zh.wikisource.org/zh-hans/%E6%AC%BD%E5%AE%...